Wednesday, April 30, 2025

Trần Mộng Tú: Tuổi trẻ, Tình yêu và Chiến tranh

  (Ghi lại quãng đường 50 năm di tản)

Mỗi con người là một đốm lửa nhỏ nhoi, đốt hân hoan và cháy thống khổ. Cha mẹ, anh em ruột thịt, bạn rất thân có yêu thương mình tới đâu cũng không bao giờ thấu hiểu tận cùng cái đốm lửa đó cháy và tàn như thế nào của mỗi phận người. Hạnh phúc và bất hạnh của mỗi người còn nổi trôi theo hoàn cảnh, vận nước, thời cuộc chung của nhân loại.

Cuối cùng, phần đông người ta chỉ có thể dựa vào lòng tin của tín ngưỡng để tự đứng dậy.

Trần Mộng Tú năm 1976. 

Khi chúng tôi yêu nhau thì anh mới ra Đại Học Sư Phạm được hơn 1 năm và đang đi dạy học thì bị gọi động viên-khóa 3/68 Thủ Đức. Anh xin phép cha mẹ tôi cho anh được làm hôn thú trước, ngày tháng cưới tính sau vì sợ vào quân đội rồi, xin phép thành hôn sẽ khó khăn. Cha mẹ tôi bằng lòng. Tháng 6/1968 Ba tôi đi cùng tới văn phòng tỉnh, cho phép chúng tôi làm hôn thú. Mấy ngày sau anh đi trình diện nhập ngũ, tôi thật sự lo sợ nhưng không biết phản ứng thế nào.

Chiến tranh vẫn vào thành phố mỗi đêm qua hỏa châu cùng tiếng súng và ban ngày là những lệnh nhập ngũ lan rộng ở các công tư sở. Sau cuộc tấn công Tết Mậu Thân của Cộng sản vào Huế, những trang báo ngập tràn tin chiến sự, cầm tờ báo lên ngang mặt như ngửi được mùi thuốc súng. Tiếng đại bác đêm đêm vẫn vọng về từ một nơi nào đó và ban ngày thì chiến tranh rải đạn trên những tờ nhật báo. Hàng xóm, người thân, nhà nào cũng có con trai bị gọi nhập ngũ.

Rồi những tiếng gõ cửa chợt đến vào bất cứ giờ nào trong ngày, mở cửa ra, nhìn thấy một người ăn mặc quần áo nhà binh, mặt mũi thất thần, ngập ngừng báo tin: Người con / người chồng của Bà đã tử trận. Tiếng khóc bật lên, cả nhà giao động, người ôm mặt, người ngất xỉu, người chạy đi báo thân nhân…cả khu phố náo loạn… Mang được xác về hay mất xác thì cũng đau đớn ngang nhau.

Chiến tranh đã bước vào nhà mình, vào ngay nhà hàng xóm và đã đổ ập xuống thành phố.

 Những tờ nhật báo

mỗi ngày một giống nhau

hôm nay tin địch chết

ngày mai tin ta chết

mẹ già cuối xóm

đi nhận xác con

người vợ trẻ xếp hành trang cho chồng mai đi sớm

tăng thêm quân

tuổi mười tám xếp bút nghiên cầm súng

đào thêm hầm

người chết thiếu chỗ chôn

chung quanh em bỗng thấy

thành phố tắt tiếng cười

chiếc áo em đang mặc mầu xanh

em nhìn thành mầu đỏ

mùi mực in

thành mùi máu tanh hôi

em yếu đuối

em ngơ ngác thất thần

em sợ lắm rồi thây người ngã xuống

Không,

không bao giờ em muốn anh đi

Anh gạt tay em dấn mình vào lửa

mảnh đạn mảnh bom chặn mất đường về

Ngày mai mưa nắng anh không biết

lửa hỏa châu

đốt cháy lời thề. (tmt)

Cung bị gọi nhập ngũ (Khóa 3/1968) Thủ Đức

Thời gian Cung huấn luyện quân sự ở Thủ Đức chúng tôi còn thỉnh thoảng được gặp nhau. Có khi cuối tuần, anh đi theo “xe cơm” ở trong trại ra ngoài, về được 1 đêm, sáng sớm hôm sau tìm taxi về trại. Nhà tôi đến Thủ Đức khoảng 30 cây số. Ba, Mẹ tôi thương lắm! Có khi anh về, gặp mưa ướt hết giầy, áo nhà binh, Ba tôi đưa quần áo của mình cho anh thay, Mẹ tôi phải nói chị giúp việc mang quần áo anh vào trong bếp lửa hong cho khô để ngày mai có áo về trại. Anh được một tối ở lại nhà tôi và được cha mẹ và tôi săn sóc, đêm anh ngủ với Ba tôi trên cái sập gụ giữa nhà. Những lần anh về như thế, chúng tôi được ngồi im lặng bên nhau đến khuya, chỉ cầm tay thôi mà muốn khóc…cũng không hiểu tại sao lại muốn khóc.

Nhưng sáng hôm sau anh đi thì tôi khóc thật, khóc âm thầm một mình sau cánh cửa. Không biết tại sao lại khóc có lẽ vì sơ mà khóc thì đúng hơn. Sợ anh đi rồi đi luôn. Cái sợ đó không lâu biến thành sự thật.

Anh ra Thủ Đức bị chuyển tới Chi Khu Trà Bồng. Một địa danh nghe tên mà ngơ ngác.

Tháng 11/1968 mẹ chồng tôi mang trầu cau, bánh rượu, sang xin làm đám hỏi. (Bà không muốn mất cô con dâu mà con Bà đã yêu quý.) Đám hỏi không có chú rể, nghĩ cũng buồn, nhưng thời chiến mà, làm sao được.

Sau đó anh được chỉ thị về đóng ở Kiên Giang (Rạch Giá). Sau Lễ Phục Sinh, tháng 4/1969 anh xin phép về 1 tuần cưới vợ. (Mọi việc đều do mẹ anh thu xếp), Sau đám cưới, anh trở lại đơn vị, tôi vẫn ở nhà với cha mẹ và gia đình mình, đợi Bộ Giáo Dục cho Cung về đi dạy học lại, mới tính chuyện hai vợ chồng trẻ ra ở riêng. 

Nhưng anh không bao giờ trở lại với tôi nữa, ngày 30/7 anh tử trận ngay lần ra trận đầu tiên ở Xã Vĩnh Thanh Vân- Rạch Giá (Kiên Giang).

Nếu tính ngày: Chúng tôi cưới nhau được 3 tháng và ở với nhau được 2 tuần.

Tôi, mẹ chồng và người anh ruột của anh cùng đi Kiên Giang đón xác anh về.  

Nhà xác Kiên Giang nằm cạnh bờ sông /Con nước đục lờ đờ pha sắc máu.

Huyệt mộ 

Không bao giờ em quên

đường ba trăm cây số

em đi nhận xác anh

với trái tim thống khổ

Không bao giờ em quên

trại lính nghèo xơ xác

nến thắp trên quan tài

nước mắt em mặn chát

Không bao giờ em quên

mẹ già đầu nhuốm bạc

người anh trai đau xót

thương thân mình ngày mai

Không bao giờ em quên

mắt môi anh ngày ấy

mắt nhìn em đắm đuối

môi còn ấm tình đầy

Không bao giờ em quên

trái tim anh lãng mạn

chỉ một bóng hình em

giờ nhận thêm mảnh đạn

Không bao giờ em quên 

chiếc quan tài mầu vàng

lá cờ ba sọc đỏ

anh nằm im lìm đó

chẳng một lời sau cùng

Không bao giờ em quên

nghĩa trang ngày hôm đó

nắm đất vun cuối cùng

anh nằm sâu huyệt mộ.

Cung tử trận ngày 30 Tháng 7- 1969 (1)

Thời gian cứ trôi, mây vẫn bay và nước sông vẫn chảy. Tôi khóc cười  theo vận nước nổi trôi. Tôi sống với tình yêu của hai bên gia đình: gia đình tôi và gia đình anh. 

Tôi đi làm với sự thương quý, bao bọc của Hãng Thông Tấn The Associated Press, họ là những người đã yêu thương nâng đỡ tôi từ khi tôi còn độc thân, lấy chồng rồi lại độc thân. AP là một gia đình thứ hai của tôi, những người bạn Việt và Mỹ ai cũng yêu thương và hỗ trợ tôi qua thăng trầm của cuộc sống. Họ chia sẻ giọt nước mắt và tiếng cười với tôi.

Thế rồi Tháng Tư ập tới, một cơn hồng thủy hỗn mang. Gia đình, bè bạn, sở làm…tất cả đều tan tác như chim lạc bầy.    

Tôi bỏ quê hương ra đi theo sự xếp đặt của AP. Cuống cuồng, hỗn loạn. Tôi cố lo cho đại gia đình mình. Tôi không còn lòng dạ nào nghĩ tới ngôi mộ của anh nằm cô đơn trong nghĩa trang. Sau này nghĩ lại tôi cũng ân hận mãi là không kịp đến giã từ anh lần cuối.

Tạ Tình 

Hãy tha thứ cho em
Không một lời từ tạ
Không nụ hôn cuối cùng
Trên mộ anh bia đá

Hãy tha thứ cho em
Không một lời kinh nguyện
Không một đóa hoa hồng
Không một hàng lệ nến

Hãy tha thứ cho em
Để rêu phong lối cũ
Để mộ chí hoen mờ
Để anh sầu trong mộ

Hãy tha thứ cho em
Một đi không ngoảnh lại
Để sỏi đá mỏi mòn
Để cho anh ngóng đợi

Hãy tha thứ cho em
Núi sông ngàn cách trở
Tình đã phụ tình rồi
Xin đừng mong ngóng nữa.

 tmt- Tháng 4-1975 (2)

Cũng như tất cả những người Việt Nam di tản khác, ai ai cũng mang trong mình những ký ức buồn của kẻ lưu vong. Chúng tôi làm lại đời mình, nhưng làm lại như thế nào cũng không bao giờ quên được ký ức của thời sống trên quê hương mình: 

Buồn,vui, tiếng cười và nước mắt, vết thương tháng Tư không bao giờ đóng vẩy, không bao giờ khô. Thỉnh thoảng những người tha hương vẫn cúi xuống nhìn vết thương của mình. 

Anh ạ, tháng Tư mềm nắng lụa

Hoa táo, hoa lê nở trắng vườn

Quê nhà biền biệt sau trùng núi

Em mở lòng xem lại vết thương (tmt)  

Vết thương chiến tranh, vết thương di tản dù xẩy ra ở bất cứ quốc gia nào, cho bất cứ dân tộc nào cũng là những vết thương khó lành nhất. Mấy chục năm định cư ở xứ người: không bị đói, không bị lạnh, không bị vất vả bản thân, không chạy dưới bom đạn, sao tâm vẫn không thấy hoàn toàn vui, vẫn đau đáu một quê nhà xa lắc, vẫn thấy mất một cái gì quý lắm mà không bao giờ còn lấy lại được và mỗi năm tháng Tư về, thấy mình ngơ ngác đi tìm một cái gì chỉ còn bóng không còn hình.

Để rồi, tất cả như một cuốn phim quay ngược lại thời gian:

Tháng Tư đi vào trong núi

Tìm con ngựa trận năm nào

Yên cương bây giờ mục nát

Hỏi chàng chàng bặt âm hao (tmt)

Tháng Tư 1975- những con người hốt hoảng chạy từ các thành phố, các tỉnh, đổ về Saigon, rồi lại kéo nhau chạy tứ tán ra bến cảng ra phi trường và chạy bất cứ nơi nào có thể chạy. Những sinh linh đáng thương như những con kiến chạy chung quanh miệng chén, chạy một lúc lại trở về chốn cũ. Con mất cha mẹ, vợ chồng mất nhau, anh chị em thất lạc…Mất tất cả như không còn gì để mất.

Nước mắt, máu và những tiếng súng…. Thành phố thân yêu không còn là thành phố mà giống như một miếng mồi khổng lồ cho báo, cho cọp và cả những con chó già xác xơ ở đâu tới, vào giật xé, chiếm đoạt.

Tháng Tư những tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa tuẫn tiết theo thành, đã có những vị chỉ huy, quay súng tự bắn mình… họ không muốn chết dưới tay Cộng Sản Bắc Việt và để cho lính của mình được an tâm di tản với gia đình.

Tháng Tư, các công tư sở, các trường học, bệnh viện, các cửa hàng mua bán lớn nhỏ đóng những cánh cửa thật chặt, nhưng chặt cách mấy cũng bị đập, bị phá vỡ, bị chiếm đoạt…bởi những con người chưa từng được sống trong một “thành phố” thật sự bao giờ. Với những người Cộng Sản miền Bắc từ núi, từ rừng đi ra thì Saigon là một thiên đàng.

Những người quốc gia của Việt Nam Cộng Hòa hơn hai mươi năm trưởng thành xây dựng trong thành phố đó, họ đang bị “giải phóng” bởi những người ở rừng, ở hầm vừa mới chui ra. Những con người nhìn những cuốn sách toàn chữ là chữ, không ích lợi gì ngoài việc dùng nhóm lửa.

Thật tiếc cho một thế hệ không được trưởng thành, được giáo dục bằng đạo đức và bằng tinh hoa của ngôn ngữ.

Những người Quốc Gia bỏ chạy chỉ lo thoát thân, họ không cần đem theo tài sản vật chất vì họ đã có cái vốn văn học, vốn giáo dục 20 năm thẩm thấu vào đời sống họ. Vật chất mất đi họ có thể kiếm lại. Vốn liếng giáo dục và học vấn không ai lấy ra khỏi được ở con người Quốc Gia. Có mất mát vật chất nhưng không đáng để phải đau lòng. Mất thân nhân, ruột thịt, bạn hữu và mất cả một nền văn hóa tốt đẹp mới đáng kể. 

Tháng Tư và những tháng tiếp theo của năm 1975, bao nhiêu người bị bắt, bị nhốt, bị tù đầy, bị đuổi ra khỏi chính căn nhà của họ đã gây dựng từ bao nhiêu năm tháng để rồi chết trong những bìa rừng, trong những cái trại có cái tên hoa mỹ là “cải tạo”. Bao nhiêu chiếc thuyền ra cửa biển không phải chỉ một tháng Tư mà những năm tháng kế tiếp đó. Thuyền chìm, thuyền cứ chìm, cứ mất tích, cứ bị hải tặc, người vẫn bỏ đi.

Bỏ đi vì chính quyền Cộng Sản mới đã tước đoạt đến tận cùng những gì thuộc về người Quốc Gia…Người Cộng Sản dùng chữ “giải phóng” hoa mỹ thay cho chữ “chiếm đoạt” Họ chiếm tất cả nhà cửa, tài sản vật chất của người quốc gia, nhưng họ không bao giờ chiếm được di sản văn hóa đạo đức của Việt Nam Cộng Hòa. 

Tháng Tư 1975 và những năm tháng kế tiếp sau này đã cả triệu người của Việt Nam Cộng Hòa bỏ nước ra đi, hiện sống rải rác trên thế giới.

 Họ bỏ đi vì không muốn con cháu họ lớn lên trong xã hội Cộng Sản. Họ đi, mang theo cái di sản văn hóa tốt đẹp mà họ đã được hấp thụ truyền xuống con cháu họ ở hải ngoại. Thế hệ nối tiếp đã làm được nhiều điều tốt đẹp trên những quê hương họ di trú. Tháng Tư của 50 năm sau, những bậc phụ huynh một phần đã qua đời theo tuổi tác, những người còn lại không còn trẻ nữa, cúi nhìn xuống đời mình, lòng vẫn nặng tình quê.

Tháng Tư, tôi bỏ nước ra đi dắt theo cha mẹ già và cuốn Chinh Phụ Ngâm, cuốn Kiều trong túi hành trang. Tôi đến Camp Pendleton vào một buổi tối ngày 21 tháng 4 năm 1975. 

Bài thơ viết ở Pendleton, California

(Viết tặng những người di tản, ngày đầu đến trại Tỵ Nạn)

            Khi tôi đi một mặt trời vừa rụng

            Một kinh thành vừa sụp đổ sau lưng

            Một quê hương vừa thở nhịp cuối cùng

            Một dân tộc vừa ly khai dân tộc

             Khi tôi đến mặt trăng xanh vừa mọc

             Từng đoàn người già trẻ níu ôm nhau

             Ai gọi tên ai tiếng nấc nghẹn ngào

             Lều vừa dựng đứng chờ hồn thất lạc

             Khi tôi đi một cuộc tình vừa rạn

             Những đóa tường vi gục khóc trong bình

             Nụ hôn đau trao vội vã người tình

             Gói trong aó một cành hoa nước mắt

             Khi tôi đến… Ôi! một tôi đổi khác 

             Áo khăn người nghe lạ tủi trên thân

             Chăn chiếu người đắp mãi vẫn lạnh căm

             Ly nước ngọt trên môi nghe muối mặn

             Khi tôi đi cả dòng sông đứng lặng

             Những vai cầu khuỵu xuống buổi tiễn đưa

             Nón bài thơ thả trên dòng nghinh lũ

             Sóng tang thương nức nở mấy cho vừa.

             Ngày 21 Tháng Tư/1975

  Viết tiếp sau 20 năm 

             Hai mươi năm sau mở trang thơ cũ

             Giấy ố vàng…vẫn chẩy một dòng sông

             Tôi úp mặt vào thơ tìm tiếng sóng

             Hồn cỏ lau.  Ôi! bãi nhớ mênh mông

             Tháng Tư/1995

 Viết tiếp sau 45 năm 

           Bốn mươi lăm năm nhìn bàn tay mở

           Thời gian trôi vớt được giọt nào không

           Dòng sông nào chẩy hoài trong ký ức

           Cửu Long ơi sao sóng cạn giữa lòng.

           Tháng Tư/2020

Viết tiếp vào năm 50 

           Sợi tóc nào vừa nhuộm

           Vẫn trắng với thời gian

           Giọt nước mắt nào tan

           Vẫn đầm đìa muối mặn

           Quê hương còn…mà mất

            Hận thù vẫn không vơi

            Lá cờ nào xé đôi

            Cũng hai màu vàng đỏ

            Màu đỏ là của máu

            Màu vàng là của da

            Một mai khi nằm xuống

            Cờ nào phủ thịt da

            Một mai khi nhắm mắt

            Ta có xót thương Ta

           Tháng Tư /2025

  Tôi đã đi qua 50 năm ở quê người, mỗi năm đều có 1 Tháng Tư, như vậy là tôi đã cõng trên lưng 50 Tháng Tư. Chao ơi là nặng! 

 Bao nhiêu giọt lệ bao nhiêu tiếng cười, (Giọt lệ luôn đi trước tiếng cười), bao nhiêu đổi thay trong cuộc sống. Từ độc thân, lập gia đình, có con, có cháu ngoại, cháu nội…Từ môi thắm, má hồng thành da mồi, tóc bạc và buồn hơn nữa là càng nhiều tuổi và không còn bận mưu sinh, càng thấy như mình vẫn chạm tay vào một vết thương không bao giờ đóng vảy.

Cha mẹ và một vài người thân ruột thịt, vài người bạn quý đã qua đời. Thân xác họ nằm trong đất hay lênh đênh trên bọt sóng, tất cả đều để lại tiếng dội trong lồng ngực gầy, để khi nào lòng quê chợt động, tôi mang ra tự vỗ về tôi.

Hình như có sống xa quê, người ta mới biết cái tình quê hương nó sâu đậm đến thế nào trong trái tim mình. Nhất là thức giấc vào một đêm tháng Tư thì khó tìm lại được giấc ngủ. Bao nhiêu hình ảnh đau buồn thi nhau kéo về, mình không khóc nhưng sao lòng im ắng thế, như nghe được tiếng thở của đêm và hình như tháng Tư đang khóc.

Em nằm im lặng nghe đêm thở

Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm

Anh ạ, em nghe tháng Tư khóc

Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)

Tôi tự nói với mình: 50 năm rồi đấy, sao mình có thể sống ở ngoài quê hương lâu đến thế nhỉ! Ngày xưa còn nhỏ, cứ nghe thấy người bỏ làng, bỏ quê đi làm ăn xa, họ phải mau mau trở về nguyên quán khi tuổi đời đã cao, họ muốn được sống những ngày cuối đời ở quê nhà, và khi chết, được chôn cất trong làng trong quê mình. Bây giờ mình không chỉ xa quê, xa làng, mình còn xa cả nước. Mình đã rơi vào câu nói: “Sống nơi đất khách/Thác chôn quê người”

Có người bạn nói: “Đây là quê hương thứ hai của mình.” Thật vậy sao! 

Tôi chỉ nghe nói Quê Nội, Quê Ngoại, nhưng không có nghĩa là hai tổ quốc, hai quê hương, vì làm sao một con người mà có tới hai quê? Chao ôi! Sao mà khó thế! 

50 năm cũng cho tôi nhiều người bạn mới thành những người bạn lâu năm, những người bạn Việt Nam cùng chia xẻ được những ký ức về nguồn cội, về văn chương, văn hóa của quê nhà, để đôi khi cùng nhau ngậm ngùi hay hạnh phúc. Những người bạn khác quốc tịch, khác văn hóa trên mảnh đất Hợp Chủng này đã cho tôi học được rất nhiều điều: từ kiến thức và lòng nhân ái của họ, để thấu hiểu câu: “Cũng nhân tâm ấy há thiên lý nào” của người xưa để lại.

Năm mươi năm đôi khi nghĩ lại giật mình, sao mà dài thế, nhưng đôi khi lại thấy ngắn như một tiếng thở dài.

Anh ạ tháng Tư sương mỏng lắm

Sao em nhìn mãi chẳng thấy quê

Hay sương thành lệ tra vào mắt

Mờ khuất trong em mọi nẻo về. (tmt)

Tháng Tư khi nghĩ về quê nhà, nghĩ về một Saigon thân thương với bao nhiêu kỷ niệm đầu đời, từ thuở còn đi học cho đến lúc trưởng thành, nhưng hình ảnh sâu đậm nhất để lại trong tâm vẫn là hình ảnh pho tượng người lính VNCH trước Nghĩa Trang Quân Đội. Người ta có thể kéo pho tương xuống, đập tan tành nhưng không đập được linh hồn của pho tượng đó trong tâm khảm của người quân, dân Việt Nam Cộng Hòa.

Tháng Tư của 50 năm sau. Chúng tôi, những người sống còn trong cuộc chiến “máu đỏ da vàng” này, luôn luôn kính trọng và ghi ơn những tướng, tá, những người lính trong hơn 20 năm của VNCH đã vị quốc vong thân, và những quân nhân còn sống sót lưu vong đến ngày hôm nay, họ là những pho tượng không bao giờ vỡ dưới thời gian hay bất cứ bạo lực nào.

Trần Mộng Tú- Tháng Tư-1975-2025

  1. Chi tiết chuyến đi đón xác ghi lại ở bài: Bình Thủy 1969
  1. Thơ- Tạ Tình- Phạm Anh Dũng phổ nhạc

Tuesday, February 18, 2025

Con Cá Tiền Kiếp, gửi nhà văn, nhà hoạt động môi sinh Ngô Thế Vinh

 


Ngày xửa ngày xưa.

Ngày xửa ngày xưa
có ông vua muốn mở mang bờ cõi
Ông dùng quyền lực mình
đi xâm chiếm cả những vùng đất thật xa

Trên con đường ông đi
người và gia cầm chạy xao xác
những con gà không mang nổi quả trứng
của mình
vừa đi vừa đánh rớt
trứng vỡ tan trên mặt đất
chẳng còn sót lại bao nhiêu
nên bây giờ
anh có tới thăm em
đừng mang hoa mang bánh
mang cho em một con gà
để em nuôi lấy trứng

Ngày xửa ngày xưa
có Ông vua muốn mở mang bờ cõi
Ông dùng quyền lực mình
cất tiếng đòi mua
đòi chiếm
những đất nước yếu thế hơn mình
Bây giờ không phải đàn gà mất trứng
mà là những con người mất một quê hương

Căn nhà anh còn phòng nào cho người đến trọ
và anh có mở lòng ra ôm những vết thương.

Tháng 2/16/2025

Áo, Gió và Tôi

 Áo, Gió và Tôi

Sáng nay

Tôi soạn lại tủ quần áo

bỏ bớt những chiếc áo của nhiều năm trước 

những chiếc áo đã quên

những chiếc áo không muốn mặc nữa

không phải tại áo cũ

mà tại tôi không còn mới nữa

để mặc những chiếc áo thanh xuân

Tôi rũ những chiếc áo

xếp vào một cái thùng giấy….

Gió hôm nay mạnh quá

thổi qua cánh cửa sổ mở

tràn vào 

lạnh buốt cả căn phòng

Tôi đứng lên

nhặt những mảnh gió

gấp lại

cho vào thùng nằm cùng những chiếc áo

Những chiếc áo giang hai cánh tay

ôm choàng cơn gió vừa tới

cả hai sẽ cùng đi

về một địa chỉ mới

Những chiếc áo thật sự

đã quên 

một thời 

làm đẹp tuổi xuân tôi.

Tháng 2/13/2025

Trần Mộng Tú

Thursday, December 19, 2024

Thôi, Đừng Tìm Em Nữa

 

Em mốn lợp lại đời mình
như giáo đường lợp lại những viên ngói
con chim bồ câu mẹ sẽ tìm đến
ôm ấp trái tim em
một sáng
nỗi buồn em mọc cánh
bay đi
Em là con Chim nhỏ
bỏ lại mẹ và những viên ngói
lần đầu tiên biết đến bầu trời

Em muốn trườn lại đời mình
như con Giun nằm ngủ dưới phiến đá mùa Đông
một sáng thức dậy
trườn vào mùa Xuân vừa tới

Em muốn say lại đời mình
như chai rượu Mận
ủ từ mùa hè năm đó
một mùa Thu, ai về gõ cửa
chén rượu nào rót giữa thâm ân

Em muốn như hoa Báo Xuân
thản nhiên chết đi sống lại
giữa hai mùa,
một sáng đầu năm,
nở tung bên cửa nhà ai báo… Em đã tới

Em muốn như Ve Sầu nằm im dưới lòng đất
nhiều năm
bỗng một ngày giữa Hạ nóng râm ran
rung cánh trên thân cây
hát vang bài ca tình ái

Em muốn như con Chuồn Chuồn Kim
trên ao bèo ngày đó
ai với bắt cho ai
trượt chân
ngã cái ngã đầu đời.

Em một đời quanh quẩn
giữa bông hoa Báo Xuân, con Chim non, con Ve Sầu, con Chuồn Chuồn Kim, con Giun đất …và ngất ngây rượu Mận
Em không tìm ra em

Thôi anh,
đừng tìm em nữa.

Trần Mộng Tú
 – Sinh Nhật 2024

Seek Me Not

I yearn to re-shingle my life, like a cathedral replacing its weathered roof tiles 
A mother dove will come to embrace my heart 
my sorrow will sprout wings 
and take flight
one morning
I’m the young bird soaring upwards, knowing the sky for the very first time
leaving my mother and the tiled roof behind

I yearn to crawl back into my life 
like an earthworm slumbering beneath a stone during Winter
which emerges one morning when Spring arrives

I yearn for a life steeped in plum liquor 
aged since Summer
Then Autumn comes with a gentle knock 
and a glass is poured with deep gratitude

I long to be like the Spring Herald flower
serenely transitioning between seasons of life and death
On a new year’s dawn, I will blossom
announcing my presence at some unknown doorstep

I want to be like the cicadas,
silent in earth for years,
on one hot summer day buzzing their wings in trees,
filling the air with love symphonies

I want to be like the damselfly 
on a water-hyacinth pond that day, 
when someone reached out to catch it for another,
slipped and had their first fall in life.

A lifetime I have wandered, among the Spring Herald flower, the young bird,
the cicadas, the damselfly, the earthworm, and the intoxicating embrace
of plum liquor, yet I remain elusive to myself.

So, my love, don’t look for me anymore.

Trần Mộng Tú
(on my birthday in 2024)
Translation: Đặng Thơ Thơ

 

Thursday, June 6, 2024

Trần Mộng Tú: NƯỚC MẮT, NƯỚC BIỂN VÀ THUYỀN NHÂN VIỆT

 Nguồn: VOA Tiếng Việt

 

Chiều hôm ngày 30 tháng 3, chúng tôi, 56 người, gặp nhau ở một phi trường nhỏ trong một tỉnh nhỏ, có tên là Hatyai, của nước Thái Lan.
Trong 56 người, chỉ có 4 người không phải là thuyền nhân: vợ chồng tôi, Trùng Dương, anh Michael ở Texas làm cho đài Truyền Hình Saigon-Houston.
Số đông thuyền nhân tham gia là các anh chị đến từ Úc Châu và rất nhiều người đã từng đi Songkla và Bidong hai, ba lần.
Anh chị Dương Phục và Vũ Thanh Thủy cũng là thuyền nhân nhưng đây là chuyến đi đầu tiên của anh chị đến đảo Kra. Cô Ngọc Ân, phóng viên của đài Little Saigon-Radio, Kim Hoàng và Chấn Hồng của đài VietFace TV từ Úc cũng có mặt trong chuyến đi này.

Chúng tôi may mắn có ba Linh Mục , Cha Nguyễn Hùng đến từ Đài Loan, cha Phạm Hồng từ Úc và Phạm Tâm (cũng còn là Bác Sĩ Y Khoa) đến từ Houston, Hòa Thượng Thích Huyền Việt đến từ Houston, Thầy Tây Tạng Geshe Gawa đến từ Úc.
Trong nhóm còn một Bác Sĩ trẻ nữa là Kenneth Nguyễn đến từ California.

Trại Tỵ Nạn Songkla

Mắt Nào Không Lệ Chảy

 

Chuyến hành hương đầu tiên của chúng tôi, bắt đầu trở lại thăm nền trại tỵ nạn Songkla. Từ thành phố ra tới địa điểm đó khoảng một tiếng lái xe.

Xe đi ra ngoại ô qua những vùng trồng mía, xoài và rất nhiều cánh rừng trồng cây cọ (Palm) dùng cho việc thủ công nghệ. Nhà cửa giống hệt những vùng quê Việt Nam thời chưa đổi mới. Cũng nhà tôn, nhà lá, thỉnh thoảng chen vào một ngôi nhà ngói, bên cạnh bụi chuối, cây hoa sứ. Cũng những con chó trước cửa sủa bâng quơ, những con gà trống nghiêng đầu ngơ ngác, thằng bé ở trần vừa chạy vừa ngã. Chiếc xe như mang chúng tôi trở về quê xưa ngày cũ.

Chiếc xe ca chở hơn 50 người đậu lại, biển xanh trước mặt, nắng gắt trên đầu. Mắt mở to, mọi người xôn xao chỉ tay về phía bên phải.

Cứ đi vào đây, hướng này đúng rồi. Sẽ thấy cái giếng.

Cái giếng mấy năm trước tôi trở lại còn thấy, bây giờ đã bị biển xâm thực rồi. Biển đã mang thêm cát vào, đã chôn mất miệng giếng, nhưng còn cây đa. Chính nơi này là trại tạm cư cho thuyền nhân chờ được định cư ở đệ tam quốc gia. (mặc dù cây đó trông giống một cây thùy dương hơn là cây đa. Có thể họ muốn gọi như thế để có một chút hơi hướm quê nhà) .

Vùng bờ biển, nền lều trại dựng ngày trước đã được dọn sạch không còn vết tích, một con đường trải nhựa, chạy song song với biển đã như có sẵn tự bao giờ. Chúng tôi tới gốc cây đa đó, vẫn thấy dấu thờ cúng chưa cũ lắm, có bát cơm đổ nghiêng ngả, hạt cơm vừa khô, có nhang đèn vứt lăn lóc, những bức tượng đổ vỡ, những đồ thờ cúng kiểu Thái cái gẫy, cái bể.

Tác giả và Miếu Thờ ở Songkhla.

 

Ba linh mục và nhà sư kêu gọi mọi người tụ họp lại cùng thay nhau đọc kinh, tụng niệm.

Nhang được thắp lên, nước mắt thi nhau ràn rụa. Tên Chúa, tên Phật được thốt trên môi mọi người, để cầu cho người chết , kẻ lưu vong. Sau phần tụng niệm, cha Hồng bắt đầu giọng cho mọi người hát theo.

Giữa buổi trưa nắng chang chang, không một ngọn gió, tiếng hát của hơn năm mươi người hát vang vang như muốn át tiếng sóng biển đang đập vào bờ:

 

Tự Do ơi Tự Do, tôi trả bằng nước mắt
Tự Do hỡi Tự Do, anh trao bằng máu xương
Tự Do ơi Tự Do, em trả bằng thân xác
Vì hai chữ Tự Do, ta mang đời lưu vong

(Nam Lộc)

Mọi người xúm lại chụp hình. Các anh, chị làm phát thanh, truyền hình bắt đầu công việc của mình. Có người đi tách ra riêng một chỗ thì thầm với biển, với dĩ vãng, với kỷ niệm.

Bao nhiêu người đã được định cư ở nơi êm ấm? Bao nhiêu xác đã trôi giạt vào bãi bờ này?

 

Nước mắt, nước biển, trôi đi hai hàng oan nghiệt
Tóc bạc, tóc xanh, chìm sâu một khối tủi hờn.

Tôi cúi xuống vốc lên một nắm cát, nhặt một chiếc vỏ ốc đã vỡ, quay lưng lại với biển, chân thấp chân cao, vừa đi vừa lau nước mắt.

Nơi đây cũng đã dánh dấu bao cuộc tình tỵ nạn. Gặp nhau như rong rêu giạt vào bờ, bám lấy nhau rồi lại phải buông nhau ra vì mỗi người phải đi định cư ở hai nơi khác nhau, hay người đi người vẫn ở lại ngóng trông. Tương lai là một trang giấy trắng chờ tay ai vẽ xuống.

Chúng tôi rời bãi này để tới một bờ khác.

Tha Sala và 11 Cô Gái Việt

Trưởng nhóm, anh Hùng Lê cất tiếng: Bây giờ Hùng đưa các cô chú đến thăm đền thờ Mười Một Cô.

Đó là chuyện 11 cô gái Việt, không một mảnh áo quần, bị trói cổ vào nhau, thả nổi trên biển. Xác các cô trôi tới bãi Tha Sala này, được người địa phương thương tình vớt vào chôn cất. Ai nghe cũng phải xót thương, rùng mình, uất hận.

Những nàng thiếu nữ như hoa đỏ
Một sớm theo nhau bước xuống thuyền
Hoa bỗng rơi ra từng cánh mỏng
Thả vào lòng biển máu oan khiên

Tha Sala không chỉ vớt Mười Một Cô, Tha Sala còn vớt thêm bao nhiêu cái xác trôi đơn lẻ, trôi hai ba, trôi năm bẩy, giạt vào bờ.

Người đàn bà Thái khoảng 60 tuổi, gia đình hiện sống trên bãi đã lập một miếu thờ cho những vong linh này.
Mỗi ngày bà mang ra miếu một bát cơm trắng, một chén nước lạnh và mấy cây nhang.

Đây là câu chuyện của bàKhi gia đình bà tới ở trên bãi này thì vẫn còn rất hoang vu. Họ đào đất dựng nhà, chạm phải nguyên một chiếc thuyền chôn sâu trong cát. Họ tin là thuyền của người vượt biển bị đắm, sóng đánh vào và cát phủ lên. Bà cũng theo người lớn tuổi hơn ra biển mỗi lần có xác giạt vào. Khi đó tuổi của bà, khoảng tuổi các cô con gái Việt này. Gia đình bà dựng một ngôi đền nhỏ thờ vong linh của thuyền nhân và 11 cô gái.

Chiếc thuyền cứ thế để nguyên trước cửa đền. Theo năm tháng, biển xâm thực và bão tố, ngôi đền chỉ còn lại cái nền vỡ và cái thuyền chỉ còn lại một mảnh ván dài, nhưng bà vẫn cơm trắng, nước lạnh và thắp nhang mỗi ngày.

Người Việt bị người Thái giết, thì cũng chính người Thái thờ cúng những oan hồn người Việt. Có phải đó là sự đền bù của đất trời không?

Sau Tha Sala, chúng tôi được đưa tới một địa điểm gần bờ biển phía lên đảo Koh Kra.

Nơi dừng chân là chùa Wat Samphreak, trong chùa còn có một ngôi trường Tiểu Học. Tối hôm đó chúng tôi được ngủ lại trong chùa. Chúng tôi trải chiếu của nhà chùa, nằm bình an trong chánh điện, dưới chân những tượng Phật. Tôi trăn trở vì nóng, vì muỗi hay vì câu chuyện thương tâm của mười một cô gái bất hạnh. Nghe nói tuổi của các cô khoảng từ 19 tới 23. Ôi cái tuổi tinh khôi, mơ mộng và tràn đầy ước vọng!

Biển gọi em hay em gọi biển
Sóng đang reo sao bỗng khóc gọi hồn.

Nước mắt tôi ứa ra, trái tim tôi thổn thức. Tôi thương các em, thương cha mẹ các em, thương cho dân tộc tôi quá đỗi! Chúa ở đâu? Phật ở đâu?

Lên thuyền ra đảo Koh Kra

Bốn giờ sáng ngày mồng 1 tháng 4, từ bãi của làng chài lưới Hua Sai, thuộc Nakhar Si Thammarat, cách đảo Koh Kra 80 cây số, chúng tôi lên thuyền ra biển đi tới đó.

Đảo Koh Kra

Tại bãi biển.

Trên bãi biển tiếng gọi nhau khe khẽ, tiếng chân trên cát, ánh đèn pin lóe lên, dắt tay nhau, chúng tôi leo lên những chiếc thuyền tam bản của dân đánh cá Thái Lan, thuyền không mui, chạy bằng máy đuôi tôm.

Sao đi sớm thế?
Giờ này biển êm, không có sóng
Chạy bao lâu thì tới?
Khoảng hơn 3 tiếng

Ngồi sát vào nhau, tám người một thuyền. Bắt đầu tách bờ tiến về đảo Koh Kra.

Có tiếng nói khẽ cất lên:

Hồi đi vượt biên, chúng em đi bằng thuyền nhỏ như thế này, gọi là taxi, đưa ra ngoài có thuyền lớn hơn đón.
Nhưng hồi đó phải ngậm miệng, không được nói, và rất sợ bị bắt lại, cộng thêm nỗi sợ bão biển, sợ hải tặc và chúng em chẳng ai có áo phao mặc như thế này.

Tôi ngồi co rúm người lại, thuyền đang chạy, nước biển bắn tung tóe lên mặt, những hạt muối mặn trên môi. Trời vẫn tối chưa nhìn tỏ mặt nhau. Biển mênh mông, biển tối om, tôi bắt đầu hiểu mang máng thế nào là nỗi sợ của người vượt biển. Nếu thuyền lật bây giờ, cũng khó lòng mà tìm cứu được nhau trong bóng tối. Đây thực ra mới là vịnh chưa ra tới biển.

Trời dần sáng. Lên tới bãi san hô của đảo Koh Kra thì sáng hẳn. Bờ biển này không có cát, chỉ toàn những mảnh san hô, nên không thể đi chân trần được. Năm 1979 đã có tới hơn 2000 thuyền nhân bị hải tặc nhốt giam ở đây. Vợ chồng chị Vũ Thanh Thủy và anh Dương Phục cùng nhóm gần 200 người đã trốn hải tặc 21 ngày đêm ở đây. Những con thú mang hình người đã hành hạ thuyền nhân Việt ở mức độ dã man ngoài sự tưởng tượng của một đầu óc bình thường

Hàng ngàn người đã bị hải tặc giam cầm trên đảo này, con số người chết ở đây không ai biết rõ là bao nhiêu?

Bao nhiêu phụ nữ đã bị hãm hiếp, bao nhiêu người chồng, người yêu, cha mẹ, anh trai, bất lực và bất hạnh trước thảm nạn dưới tay hải tặc. Chỉ có Trời mới biết con số chính xác này.

Những cô gái nạn nhân này chịu nhiều khổ hạnh khác nhau. Có người bị bắt đi luôn không biết còn sống hay đã chết. Nếu sống, họ có còn muốn tìm về gặp lại những người thân yêu nữa hay không? Hay họ tự coi như cuộc đời cũ đã chấm hết, đã xóa tên họ. Họ đã chấp nhận sống hai đời trong một kiếp.

Có người khi được cứu đã mang thai nhưng họ can đảm không bỏ đi giọt máu oan khiên đó, nó là một phần xương thịt họ. Họ mang con đến một nơi khuất lấp, xa lánh cộng đồng Việt, không gặp những người thân và tự nuôi con. Họ là những người mẹ vượt lên trên tất cả mọi thử thách mà định mệnh đã đặt vào họ.

Có cô gái chọn nhảy xuống biển chết thay vì bị hải tặc hiếp, nhưng số phận không cho cô chết, cô sống kẹt trong một khe đá, cô đói, khát, lạnh và bị cá tôm rúc rỉa hai chân cô trong 21 ngày. Khi cứu được cô ra, người ta nhìn thấy hai ống xương chân không da thịt.

Tôi đau đớn tự hỏi: Nước mắt nào khóc rửa được những vết thương này.

Nghe bước chân mình trên đá nhọn
nghe trăm gai sắc nhói trong tim
nghe sóng biển đập vào lồng ngực
nghe em gào khóc nỗi oan khiên.

Còn bao nhiêu câu chuyện nữa chưa được kể ra. Những người sống sót không ai muốn nhắc lại ký ức đau thương ấy. Họ im lặng, lãng quên đi hay thậm chí đã mất trí nhớ sau những tai nạn khốc liệt cho cả tâm hồn và thể xác ấy.

Tác giả Dương Phục và Vũ Thanh Thủy đã ghi lại trong hồi ký cả ngàn trang “Tình Yêu, Ngục Tù và Vượt Biển” của anh chị một phần nào những thảm cảnh trên đảo Koh Kra, những thảm cảnh mà Việt Nam và Thái Lan ngày nay đều cố tình phủ nhận và lẩn tránh. Tinh thần trách nhiệm và liêm sỉ của một quốc gia là chiếc hộp đen cả hai nước đều né tránh không muốn mở ra, nhìn lại.

Mỗi người bắt tay vào mỗi việc. Căng lều tập thể, căng lều cá nhân. Người lo dựng tượng Phật, tượng Đức Mẹ, Thánh Giá . Chúa thì phải lắp từng mảnh vào với nhau. (Những tượng này và vật liệu cần thiết đã được anh trưởng nhóm và một vài anh mang tới trước mấy hôm). Người lo mắc võng cá nhân, người lo treo những chiếc đèn lồng từ thân cây này sang thân cây kia. Sửa soạn sẵn cho một đêm hoa đăng trên đảo.

Chúng tôi xếp ra từ trong hộp những tấm mộ bia có khắc ghi tên tuổi thuyền nhân và những tấm khắc lời tưởng niệm (Được anh trưởng nhóm đặt mang từ Việt Nam sang), sửa soạn gắn những bia này chung quanh một bức tường tượng trưng cho khu nghĩa trang.

Buổi trưa nắng qua nhanh. Mỗi người được ăn trưa một tô mì gói, trước khi gạch, xi măng được chuyền tay nhau vác lên đồi tôn giáo. Một số người xuống tắm biển, có người leo lên thuyền trở về đất liền mua thêm vật dụng.

Công việc dựng tượng mới làm được một phần.

Buổi chiều, mọi người còn đang tất bật thì có hai chiếc thuyền tuần duyên từ đâu rẽ sóng tới, bốn năm người lính Thái có vũ trang nhảy vào bờ. Cô bé Nhung thông ngôn thiện nguyện (sống ở Thái) được gọi ra để trả lời những câu hỏi. Lính Thái bắt chúng tôi chia ra làm hai hàng, bên nam, bên nữ. Chúng tôi vội cho người đi mời mấy vị sư Thái (hiện tu hành trên đảo) xuống, cắt nghĩa rõ ràng là chúng tôi đến dựng tượng và thăm mộ thân nhân. Đất Thái là đất Phật, đi đến mỗi góc đường đều có am, miếu, thờ cúng, nên người dân Thái rất nể trọng các vị sư. Họ bắt chúng tôi cầm thông hành của mỗi người lên ngang mặt để họ chụp hình trước khi họ xuống thuyền. Sau khi nói chuyện với các nhà sư xong họ mới chịu xuống thuyền, rời bãi.

Khi họ đi rồi, một nỗi hoang mang dậy lên trong lòng những cựu thuyền nhân: Họ nói, không ai có thể biết được hải tặc có thông đồng với lính tuần duyên hay không? Nhưng chúng ta nhờ có các sư và hiện mang thông hành ngoại quốc nên tương đối an toàn.

Buổi chiều, cơn mưa to ập xuống, dù lều được dựng dưới những tán lá cây, nước mưa vẫn làm ướt đầm chúng tôi. Khổ nhất là công việc dựng tượng và gắn bia cho người đã chết không tiến hành được, cả những tấm ghi dòng tưởng niệm, cũng phải xếp vào thùng. Nhang đèn, gạch, xi măng, phải che chắn lại. Đêm “Hoa đăng tưởng niệm” như dự tính đã không thành.

Buổi tối vẫn còn mưa. Trong tình cảnh, dưới lưng là những mảnh san hô lớn, nhỏ, mấp mô, rồi nước chảy vào thành từng vũng, quần áo, dày dép ướt sũng. Nhưng các anh em cũng kéo nhau ra lều tập thể hát dưới những giọt mưa.

Tiếng hát hòa đồng với tiếng mưa. Trong ánh lửa nến nhỏ nhoi xoi không tỏ mặt người, họ hát cho nhau nghe, cho hồn ma bóng quế cùng nghe.

Có hay không! Những hồn ma bóng quế đang rủ nhau cùng về ngồi trong lều với những người đồng hương của mình?

Đêm vẫn rào rào đổ mưa xuống, nhóm 8 người chúng tôi, nằm giữa một tấm bạt to, gấp đôi lại, nửa trải dưới đất, nửa căng trên đầu, buộc hai góc bạt vào hai thân cây. Frank nằm sát ngoài cùng phía bên phải lều, rồi Tú, Trâm, Nguyệt, Trùng Dương, Thủy, Phục và ngoài cùng là Cha Tâm bìa bên trái. Tội nghiệp Cha Tâm và Frank là hai người nằm ngoài bìa lều, ướt như chuột từ đầu tóc, quần áo, đến giày dép.

Chắc chắn những nhóm khác, trong những chiếc lều nhỏ kiểu cắm trại, cũng ướt không kém gì chúng tôi. Nhưng may, sáng ra trời tạnh, phải dậy thu dọn và ra lều tập thể ngay để làm lễ liên tôn cho các vong linh trên đảo.

Lễ Cầu Siêu Trên Đảo Koh Kra.

Lễ Cầu Siêu Trên Đảo Koh Kra.

Các vị chủ tế cùng mọi người cùng quay lưng ra biển, mặt hướng về phía trong đảo, nơi có những nấm mồ của hơn 100 thuyền nhân được biết và thêm bao nhiêu mồ không được biết đích xác, được chôn vùi từ những ngày tháng đó của mấy ngàn thuyền nhân bị hải tặc lùa vào đây.

Chương trình hành lễ được Cha Tâm đề nghị, bắt đầu làm lễ với các Sư Thái đang ở đảo được mời tới cử hành đầu tiên bằng tiếng Phạn, sau đó đến Hòa Thượng Thích Huyền Việt và phần cuối là Cha Hùng, Cha Tâm Cha Hương chia nhau dâng lời nguyện.

Vừa xong hai phần về Phật Giáo, tiếng các Cha bên Công Giáo chưa cất lên thì có tiếng hốt hoảng gọi vào lều.

Xin chấm dứt và sửa soạn ra về ngay, vì có tin báo bão sẽ tới lúc 3 giờ.

Mọi người hấp tấp đứng dậy chạy ra khỏi lều để thu dọn hành lý, riêng các Cha, Hòa Thượng và những người Công Giáo vẫn ở lại.

Cha Hùng vừa cất tiếng lên đã nghẹn ngào:

Giữa biển khơi lồng lộng gió bốn phương,
Chúng tôi những người sống sót trong cuộc chiến tranh huynh đệ đau thương, cùng nhau về đây chiêu hồn lưu xứ.
Xin những đấng tối cao mở lòng đón nhận, vớt lên giữa bọt sóng lênh đênh những oan hồn, uổng tử.
Xin hãy mang hồn vào giấc ngủ ấm yên
Vòng tay Đức Mẹ, vòng tay Phật Bà xin hãy là những tấm khăn mềm thấm khô ngàn máu lệ.
Chúng tôi cúi đầu gửi lời kinh tiếng kệ.
Tiếng chuông tiếng mõ gọi hồn về.”

Giọng Cha trầm trầm, bi thương, nghẹn ngào, Cha đọc hết bốn trang bài “Văn Tế Muộn Màng.”

Rồi các Cha thay nhau đọc tên từng người trên những mộ bia mới làm. Sóng cứ nhô cao, bão cứ tới, mọi người vẫn bình tâm với những dòng kinh nguyện.

Chính lúc thứ tha là khi được tha thứ
Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời

(Kinh Hòa Bình-Thánh Francis)

Chiếc lều cuối cùng được kéo xuống, gấp lại, gấp cả những giọt nước mưa còn đọng đêm qua. Tôi lấy tay quẹt trên giọt nước, nếm thấy mặn như những giọt lệ.

Những chiếc thuyền tam bản, không mui, rẽ sóng trở lại đất liền. Trời không nắng, âm u, nước biển bắn tung từng đợt lên mặt mũi, quần áo. Trưởng nhóm Hùng khóc rưng rức nhìn hòn đảo Koh Kra chìm dần vào những đám mây đen đang từ từ kéo tới. Anh khóc vì nhiệm vụ chưa hoàn tất. Chúng tôi phải mỗi người nói một câu an ủi anh, nhưng thật sự trong lòng chúng tôi cũng đang thổn thức. Mây đen kéo mỗi lúc một dầy sau lưng chúng tôi, hòn đảo như chìm từ từ xuống biển, tiếng kêu của những vong linh không vọng được lên trên tiếng sóng. Hòn đảo như biến mất, giữa kẻ chết và người sống một đường vạch dài và đen chia đôi.

Bidong và Những Ngôi Mộ Tập Thể Ở Mã Lai

Xe ca đi từ Thái Lan sang Mã Lai, mất 8 tiếng, qua những chặng đường biên giới, phải làm thủ tục nhập cảnh. Chúng tôi tới Mã Lai thì đã trời chiều.

Phụ nữ ở đây đa số mặc quốc phục nhiều màu sắc, khăn chùm đầu của họ rất đẹp, đủ màu, đủ kiểu quấn khác nhau chung quanh khuôn mặt. Bạn tha hồ ngắm mắt môi và nguyên khuôn mặt thân thiện, hay cười của họ.

Hiếm hoi lắm mới thấy một vài bà đứng tuổi quấn mình kín mít trong tấm vải đen chỉ để lộ hai con mắt đủ nhìn bước chân mình. Đàn ông cũng thân thiện không kém, ông tài xế taxi hay nói về đời sống gia đình cho bạn nghe, về việc họ vẫn cầu nguyện năm lần một ngày, mỗi lần bảy phút.

Mã Lai là nước đã nhận gần 300 ngàn người tỵ nạn Việt Nam trong hai thập niên 1975-1995. Những thuyền nhân đi trong nhóm kể lại: nạn hải tặc Mã ít hơn hải tặc Thái rất nhiều. Lính Mã ban đêm có vào trại kiếm những cô vừa mắt mang về làm vợ, không ai can thiệp được. Nhưng lính Mã không hiếp phụ nữ và giết người ngay trước mặt mình.

Mã Lai cũng là nơi có nhiều xác thuyền nhân tạt vào bờ nhất nên cũng là nơi duy nhất có nhiều mộ tập thể. Những người bạn thuyền nhân trong nhóm nói có khi thuyền gần vào tới bờ vẫn bị lật như thường, người đến trước trên bờ có thể nhìn thấy người chết chìm trước mặt mà không làm gì cứu được. Về sau được người địa phương cho biết là khúc biển gần vào đến bãi, dọc biển đó có nhiều vũng xoáy, có khi thuyền vào trúng chỗ xoáy mà không biết, gặp biển êm thì thoát, khi biển lúc đó động thì chỗ xoáy hút thuyền vào, thuyền lật, không cách nào cứu được. Đó là trường hợp của rất nhiều chiếc thuyền đã nhìn thấy bờ mà không vào được bến.

Viếng Ngôi Mộ Tập Thể Đầu Tiên Ở Kelanta.

Viếng Ngôi Mộ Tập Thể Đầu Tiên Ở Kelanta.

Mã cũng là quốc gia duy nhất có nhiều mộ tập thể của thuyền nhân, có đầy đủ lý lịch, vì họ chết gần bờ.

Ngôi mộ tập thể số 1 chúng tôi tới ở Balai Bachock thuộc tỉnh Terengganu, mộ đó có 46 người, trong đó có 3 em nhỏ.

Lần đầu tiên trong đời người, đứng trước một ngôi mộ tập thể. Ngôi mộ chơ vơ trên đồng đất nước người với những cái tên Việt Nam, tôi không cầm nổi lòng mình, nghe nôn nao, quặn đau trong ruột, nước mắt ràn rụa. Từ bao lâu nay chỉ nghe tiếng “Thuyền Nhân” chỉ nhìn “HìnhThuyền Nhân”, cái thương cảm đó có đấy, nhưng chỉ thoáng ngậm ngùi như vết xước ngoài da. Phải tới đó, trên một đất nước xa lạ nhìn thấy nấm mộ đó mới hiểu được tình người trong một nước nó sâu đậm đến đâu, mới hiểu rõ hai chữ “Đồng Bào” cùng một cội nguồn dân tộc với nhau. Mình bỗng chốc thấy thương dân, thương nước mình quá đỗi! Vì đâu, vì ai , vì nghiệp lực nào mà chết thảm, chết khổ, đến thế này! Cá nhân mình có lãnh một phần trách nhiệm nào trong đó không?

Nhang, nến, thắp lên, lời kinh hòa đồng, Phật, Chúa có nhìn xuống chúng sinh không?

Tôi nghĩ tới lời Sư Huyền Việt nói với tôi: Nghiệp lực làm khổ nhau. Cái khổ phải xảy ra một lần trong cuộc đời và cái khổ vẫn tiếp tục xảy ra.

Ngôi mộ thứ hai tại Cherang Ruku, cách nơi này không xa còn to hơn nữa, còn nhiều người hơn nữa, nó cho ta cái cảm tưởng đây là một cái nghĩa trang nhỏ chứ không phải là một nấm mồ. Mộ chôn 123 người, sau nhận thêm 5 người nữa chôn ở nơi khác được đưa về. Tổng cộng là 128 người. Những ngôi mộ tập thể đã được chôn chung như thế nào? Đây là lời kể của bà vợ ông Alcoh Wong Yahao (Sẽ nói đến vị ân nhân này sau)

Chúng tôi xếp xác từng lớp, không phân biệt nam nữ, tuổi tác. Cứ một lớp xác người xếp lên một lớp khăn liệm, rồi lại tiếp một lớp xác người khác, trên cùng chúng tôi đặt một lớp ván ép, rồi xúc đất đổ lên. Thế là thành một ngôi mộ lớn.

Ngôi mộ thứ hai này và ngôi mộ thứ nhất với 46 người, cộng thêm 5 người mang tới sau, họ cùng đi với nhau trên chiếc tàu khởi hành từ Mỹ Tho, tên tàu là MT- 065, khỏi hành ngày 1 tháng 12, tới gần biển Mã Lai ngày 4 tháng 12 thì bị lật chìm. Tổng số người đi trên thuyền là 300 người.

Mộ Tổng Cộng 128 Người.

Chúng tôi cúi đầu khấn nguyện Chúa, Phật, cầu xin các vong linh về chứng giám cho lòng thành của chúng tôi. Chúng tôi, những phụ nữ dựa vào vai nhau mà đẫm lệ.
Sau đó cha Tâm đề nghị mỗi người cầm nhang đi chung quanh ngôi mộ cắm xuống. Mỗi nén nhang có mang theo những giọt nước mắt.

Hỡi hồn bập bềnh trên biển
Về đây nghe lời kinh an
Trăm ngàn mảnh hồn ướt sũng
Muối nào trong lệ không tan.

Đừng khóc vội, tôi xin kể một câu chuyện liên quan đến nấm mộ to như một nghĩa trang nhỏ này.

Trong mấy ngày hôm sau khi chúng tôi đi thăm những nghĩa trang có chôn rải rác thuyền nhân, tôi thấy xuất hiện trong đoàn một thanh niên rất trẻ, tôi hỏi chuyện làm quen, khi em giúp nắm tay tôi dắt bước qua những mô đất. Em tên là Alex Trần, 28 tuổi, em đi thăm mộ ông bà ngoại và các chú, bác, của mẹ em. Vì thời khóa biểu không trùng hợp với nhóm nên em đến chậm một đôi ngày, em phải đi thăm ông bà ngoại một mình.

. Tại sao mẹ không đi với con?
. Mẹ sợ, mẹ không dám nhìn lại.

Em nói tiếng Việt rất giỏi, rất lễ phép, chứng tỏ em được lớn lên trong một gia đình tốt. Em kể:

“Gia đình của mẹ con, tất cả 18 người đi trên chiếc tàu MT-065 này. Lúc đó mẹ con là một cô bé 12 tuổi, dì của con lên 10. Khi tàu lật, họ kẹt trong khoang, dì con 10 tuổi dùng đầu đập vào cửa kính thuyền, hai chị em chui được ra bên ngoài. Cả hai chị em cùng không biết bơi, ngất xỉu. Sóng đánh họ giạt vào bờ, được cứu sống. Cả gia đình chết 13 người, còn lại 5 người trong đó có mẹ con, dì con và ba người họ hàng.

Em thơ dại sao mà em may mắn
Cả một thuyền chết hết chỉ còn em

Sau đó hai chị em được một gia đình Mỹ bảo trợ, nuôi ăn học, cho tới lúc lập gia đình. May mắn gia đình đó ở Orange County, California ngay trung tâm của người Việt nên hai cô bé đó đã vẫn giữ và nói tiếng Việt. (Khi làm mẹ, cô cũng cho con đi học tiếng Việt).

Hai chị em cô bé này quả thật trong bất hạnh có lồng may mắn. Hai cô được cha mẹ Mỹ cho đi học tiếng Việt và lớn lên với cộng đồng Việt.

Nhìn cậu thanh niên khôi ngô, đĩnh ngộ, lớn lên ở Mỹ, nói tiếng Việt rõ ràng, lễ phép trong một gia đình có hoàn cảnh như thế, tôi thấy mình không khóc được nữa. Tôi đứng sững nhìn cậu, nghe cậu kể lại câu chuyện nhiều lần (vì nhiều người hỏi). Tôi hình dung ra mẹ và dì của cậu như những viên ngọc lăn rơi xuống từ những mỏn đá cao và sắc mà không hề xây xát. Không có viên ngọc nào có thể đẹp hơn nữa.

Tôi nghĩ đến đôi ngày vừa qua, khi cậu một mình đứng trước ngôi mộ tập thể, cậu chạm tay mình lên trên tên ông bà ngoại, tôi biết chắc cậu đã khóc bằng đôi mắt của mẹ mình.

Một Mộ Bia Tập Thể Của Người Việt Trên Đất Mã Lai

Người Chủ của Những Ngôi Mộ Thuyền Nhân

Một khu nghĩa trang của người Hoa cũng ở Terengganu với những ngôi mộ xây theo hình vòng cung như cái bào thai của người mẹ (Người Hoa nói đó là tượng trưng cho ta trở về nơi ta đã từ đó ra đi) Trong nghĩa trang này có 4 khu A, B,C,D. Khu A có hơn 400 thuyền nhân được chôn ở đây. Khu B,C,D có hơn 200. Mộ chôn rải rác, khi thì một người, khi thì ba hay bốn người, tùy theo có bao nhiêu giạt vào bờ lúc đó. Có mộ thấy lên tới bảy người, mười người.

Hỏi anh Lưu Dân, một thuyền nhân ở Úc đã tổ chức tới đây nhiều lần, có gia đình nào về lại Mã Lai cải táng thân nhân đem đi không? Anh nói, có một người đã làm được. Nhưng người Mã ở thành phố này, không muốn cho người Việt đến cải táng mang đi. Họ nêu ra ba lý do:

. Thứ nhất, đã chết ở Mã là người Mã
. Thứ hai, mộ ở đây lâu năm đã thành mộ bạn.
. Thứ ba, nếu người Việt ai cũng cải táng thì đâu còn ai tới thành phố này (Terengganu là một thành phố cần du khách

Cha Tâm mặc áo lễ, dâng bánh Thánh ngay trong nghĩa trang này. Tôi và Vũ Thanh Thủy, Ngọc Hân cùng cất tiếng hát: Chúa nhân từ xin lắng nghe linh hồn con tha thiết. Ăn năn kêu van, lạy Chúa xin dủ thương, ban xuống niềm tin ấp ủ cho tâm hồn.

Cha Tâm Dâng Lễ.

Nắng rát da, trời cao vời vợi, những hạt nước mắt rơi trong tiếng hát, rơi nhòe trên trang giấy hát.

Hòa Thượng Huyền Việt đã rời Thái lan sau khi ở Koh Kra về, nên anh Ngô Đức Hữu từ Úc đại diện Phật Giáo mỗi lần tới các phần mộ, anh phụ trách khấn nguyện. Tiếng Việt miền Nam của anh nhẹ nhàng, ấm áp, bài kinh anh rút ra từ đạo Ông Bà, nghe thật cảm động, xin trích một đoạn:

Cầu Thượng đế từ bi hỉ xả. Cho linh hồn ổn thỏa nghe kinh. Cầu xin giảm bớt tội tình. Cho vong nhàn hạ nhẹ mình thảnh thơi. Cảnh ly biệt hỡi ôi thê thảm. Đức Thần Minh phất phưởng tràng phan. Cho hồn noi đó nhẹ nhàng. Trở về cứu vị an nhàn hưởng vui…..

Sau lễ chúng tôi đi thắp nhang trên các ngôi mộ, không phân biệt Hoa, Việt, người địa phương hay thuyền nhân. Nghi thức hóa vàng mã tiếp theo rất phong phú, các anh chị trong nhóm mua ngay tại địa phương nên mua được rất nhiều (Theo thống kê năm 2010 Mã Lai có 19.8 % theo đạo Phật).

Chúng tôi hóa vàng xong thì xuất hiện một người đàn bà Hoa, được những người trong nhóm giới thiệu đó là bà Alice Wong, vợ của ông Alcoh Wong một vị ân nhân chôn cất gần như là hầu hết những xác thuyền nhân trôi vào bờ bãi Mã Lai.

Chân Dung Ông Wong

Bia Công Đức.

Ông chính là người đã chôn cất những ngôi mộ Tập Thể, hơn thế nữa bao giờ có xác táp vào bờ là người ta đi gọi ông. Ông in ra cuốn sách The Vietnamese Boat People (VBP) along The East Coast Of Malaysia Peninsula để hướng dẫn những người đi tìm mộ thân nhân dọc theo bờ biển phía đông vùng biển Mã Lai. Vùng biển phía đông Mã Lai đối diện với mũi Cà Mau là nơi thuyền nhân tới đông nhất và cũng chết đắm nhiều nhất.

Ông để hết thời gian của mình chỉ để lo cho những cái xác của thuyền nhân Việt Nam trôi giạt vào vùng bãi biển Mã Lai, gần nơi ông cư ngụ. Chiếc thuyền đầu tiên của người Việt tỵ nạn ông Wong được nhìn thấy vào ngày 23 tháng 11 năm 1978 đã vào gần tới bãi nhưng chưa được lên bờ. Ông nhìn thấy những khuôn mặt hốc hác, sợ hãi nhưng tràn đầy hy vọng. (Về sau ông được Hội Hồng Nguyệt Red Cresent cho biết, chiếc thuyền đó đã bị lật trong khi được hướng dẫn vào bờ ngay trong cùng ngày. Cả thuyền 137 người bị chết đuối).

Ông và những người bạn của ông ngoài việc chôn cất, còn đi tìm những phần mộ của thuyền nhân rải rác trên đất Mã đem về gần nhau.

Những nấm mộ thuyền nhân tập thể được nhìn như “Mồ vô chủ” thì trên một ý nghĩa nào đó, ông Wong chính là “Chủ” những nấm mồ này.

Cho tới khi ông mất, năm 2006 trước đó một tuần ông vào nghĩa trang thăm mộ thuyền nhân ông đã hát bài “I will follow you forever.”

Nói theo nhà Phật, kiếp trước ông có nợ người Việt Nam hay chính ông là một người Việt Nam trong tiền kiếp?

Tấm lòng của ông Wong đối với thuyền nhân từ năm đầu tiên 1978, khi ông nhìn thấy chiếc thuyền tị nạn 137 người kéo vào vùng vịnh Kuala Terengganu, tới năm ông qua đời 2006 là 28 năm dài.

Đảo Bidong và Những khu mộ

Chúng tôi cũng tới đảo Bidong bằng thuyền. Thuyền này chạy bằng máy cao tốc và từ đất liền ra tới đảo khoảng 20 phút. Đi giữa trưa nắng gắt.

Từ năm 1975- 1991 đã có 250,000 thuyền nhân sống sót tạt thuyền vào sinh sống ở đây. Nhiều người chờ bảo lãnh có thể ở trên đảo từ hai tới bốn năm, nhiều người bị trả lại. Có người bệnh chết, có người tự tử. Họ được mang lên đỉnh đảo chôn cất.

Mộ chia ra từng khu A, B, C… Khu cho trẻ em riêng. Khu F được coi là đông nhất tới hơn 200 ngôi mộ. Chúng tôi kéo nhau lên đó. Bước thấp, bước cao, chống gậy, cầm dao, vừa leo vừa phạt cây rẽ lối. Cuối cùng cũng lên tới tấm bia có ghi 151 người (có bia mộ) Thật ra số mộ ở đây trên con số 200.

Đồi Tôn Giáo nơi trước đây có nhà thờ Công Giáo, Tin Lành, Cao Đài và Chùa thì nay đã vừa bị phá, vừa xụp đổ theo thời gian, trông vô cùng hoang phế. Đau lòng hơn nữa những tượng Phật, tượng Đức Mẹ đều bị chém cụt đầu (vì một số người cuồng tín tin là mất đầu thì không còn linh thiêng nữa) Thánh giá Chúa thì chỉ còn dấu vết trên tường mà thôi.

Tôi và Thái hai chị em đi lang thang chung quanh đồi, Thái lo chụp hình, tôi lo… buồn. Tôi đứng trên cao nhìn mông lung bao quát bãi cát dưới chân đồi.

Nơi đây bao nhiêu người dân Việt của tôi giạt vào, giạt vào bằng thân xác còn thở được, còn hy vọng sẽ được chuyển tới một quốc gia nào đó để gây dựng lại cuộc đời cho con,cháu hay chính bản thân mình? Bao nhiêu người chỉ còn là những cái xác bập bềnh giạt vào bờ? Bao nhiêu cảnh chia ly của những mối tình vừa nhận được sau những đau thương mất mát? Bao cảnh đời uất hận bị gửi trả về nơi mình đã không sống được phải bỏ đi? Bao nhiêu người đã phải ở đây cả ba, bốn năm trong hy vọng, trong tuyệt vọng trước khi được rời nơi này?

Biển dưới kia đang ập vào từng đợc sóng, nước mắt của mấy mươi năm về trước còn giọt nào pha trong muối đại dương?

Biển phải làm gì để giữ mãi được những giọt lệ, những tiếng khóc, tiếng cười, hy vọng và tuyệt vọng của một dân tộc luôn luôn “Đi không yên ổn, ngồi không vững vàng” ngay trên chính đất nước mình.

Chúng tôi xuống đồi để sửa soạn quay về đất liền. Xuống đến chân đồi ngoái đầu nhìn lại, một cánh bướm đen thật lớn từ trên đồi bay xuống lượn vòng ngay sau lưng tôi. Một thoáng rùng mình, một thoáng rưng rưng, tôi dừng lại, nói thầm trong cuống họng mình. “Thôi nhé, tôi về, nhớ mãi hôm nay.” Giơ tay áo lên, quẹt ngang dòng nước mắt. Cánh bướm bay mất hút lên đồi.

Sau một đêm mắc võng, chùm chăn (cho khỏi muỗi) ngủ lăn lóc trên cầu tàu, chúng tôi trở về đất liền, tiếp tục cuộc hành trình tìm mộ thuyền nhân.

Rải Rác Mộ Thuyền Nhân Dọc Đường

Trên đường sang Kuala Lumpur, trong tỉnh Dungun có hai nghĩa trang. Hai nghĩa trang này có biển trước mặt nên khi xác thuyền nhân giạt vào được vớt lên chôn ngay tại đây. Khi họ vớt được 1 xác, khi được 2,3, khi được 5,7. Có khi cả trên 10 xác vào một lúc.

Nghĩa trang thứ nhất lối vào có đền thờ với hàng chữ Tao Yan Dian Temple, có 80 ngôi mộ thuyền nhân, trong đó 38 mộ có tên. Một ngôi mộ tập thể nằm dưới gốc một cây bàng lớn, chôn trên 100 người, được khắc chung một tấm bia. Bia được Văn Khố Thuyền Nhân xây ngày 23 tháng 3 năm 2007.

Những ngôi mộ trong khu thứ hai được đặt trong một nghĩa trang đặc biệt do nhà thờ Công Giáo St.Thomas trông coi. Những thân xác thuyền nhân được bao quanh bởi ba ngôi thánh đường của: Thiên Chúa Giáo, Phật Giáo và Hồi Giáo. Còn được gọi là Migrants Cemetery.

Những linh hồn này thật được chúc phúc an ủi biết bao!

Nhang được thắp lên, lời kinh được cất lên, nước mắt lại chảy xuống, Chúa, Phật trên cao được mời xuống dự tiệc bi ai của nhân loại.

Viết tới đây. Tôi tưởng tượng ra, tôi là người dân Mã Lai sống dọc theo miền đông biển Mã Lai, mỗi sáng trở dậy nghe tiếng gọi nhau ơi ới bên ngoài cánh cửa: Ra vớt xác thuyền nhân Việt đang giạt vào bờ. Không phải một xác, hai xác, mà vô số xác. Rồi cùng nhau tẩm liệm, chôn cất, có khi lập miếu thờ.

Tôi tưởng tượng ra trong những cái xác bất hạnh đó, một cái xác của chính mình.

Những cái xác của đồng bào mình (hay của chính mình) đã được những người không cùng chủng tộc xót thương, được ghi lại in thành sách (như sách của ông Wong) để sau chính những người Việt về tìm lại.

Chôn cất cả trăm, ngàn, nấm mộ không phải là chuyện giản dị. Việc xây cất làm sao chu đáo được. Theo thời gian, mưa nắng những ngôi mộ không tồn tại được.

May mắn thay Văn Khố Thuyền Nhân của người Việt (Do ông Trần Đông, từ Úc-Sáng lập 2004), đã tới Mã Lai, Thái Lan, Nam Dương trùng tu lại hầu hết những nấm mộ này. (Theo VKTN-Trong vùng Đông Nam Á có hơn 2000 nấm mộ vừa tập thể vừa cá nhân).

Tôi Đọc Tên Tôi

Hội Hồng Nguyệt ( Malaysian Red Cresent Societ – Hồng Thập Tự Mã Lai) đã lưu trữ hai trăm ngàn (200,000) hồ sơ của những người sống sót. Để hôm nay những thuyền nhân trong nhóm chúng tôi đến tìm lại. Mỗi khi tìm được tên của mình hay thân nhân mình, họ òa vỡ ra cùng một lúc tiếng cười và giọt lệ:

Tôi vừa đọc tên tôi trên tấm thẻ
Có phải tôi không trên lý lịch này
Ngày tháng đó tưởng vùi chôn đáy biển
Bỗng sóng đánh vào bờ sáng hôm nay

Khi chúng tôi tới viếng Hội, câu chào hỏi đầu tiên của ông Dato’ Sayed A. Rahman,Tổng Thư Ký hội Hồng Nguyệt là: “Chúng tôi không cần biết anh là người nước nào, chúng tôi chỉ biết giúp đỡ một con người.” Nghe mà ứa nước mắt.

Ông Misnan, nhân viên điều hành của Hội, nói được vài câu bằng tiếng Việt rất thân tình. Đặc biệt là ông hát cho chúng tôi nghe bằng tiếng Việt, bài hát “Bài Tình Ca Cho Em” của Vũ Thành An thật hay. Hay một cách bất ngờ!

Thế gian đầy quỷ dữ, nhưng Trời cũng ban phát xuống những thiên thần cứu trợ.

Sau 42 năm nhìn lại, chúng ta có rất nhiều những trang Sử mới. Trên hết, mỗi một cái chết của thuyền nhân, của tù cải tạo, của người Quốc Gia chết cho Tự Do là một trang Sử mới được cộng vào.

Tất cả con dân Việt đều phải học Sử Việt.

Trần mộng Tú

Ngày 20 tháng 4 năm 2017
Viết trong cuộc hành trình về Trại Tỵ Nạn Songkhla, đảo Koh Kra và Trại Tỵ Nạn Bidong từ 30 tháng 3 tới 16 tháng 4 2017

Hình Ảnh : Trùng Dương
(*) Những câu Thơ trong bài của tác giả Trần Mộng Tú